Hiện nay không có quy định cụ thể về độ tuổi học đại học. Tuy nhiên có thể dựa vào độ tuổi học THPT để xác định độ tuổi của sinh viên năm 1,2,3,4 năm 2024 như sau:
Hiện nay không có quy định cụ thể về độ tuổi học đại học. Tuy nhiên có thể dựa vào độ tuổi học THPT để xác định độ tuổi của sinh viên năm 1,2,3,4 năm 2024 như sau:
Tại khoản 2 Điều 16 Quy chế đào tạo trình độ đại học ban hành kèm theo Thông tư 08/2021/TT-BGDĐT có quy định về điều kiện được xem xét chuyển trường như sau:
Như vậy, sinh viên được xem xét chuyển cơ sở đào tạo khi không đang là sinh viên trình độ năm thứ nhất hoặc năm cuối khóa.
Tóm lại, sinh viên năm 1 không được chuyển trường.
Tại khoản 1 Điều 16 Quy chế đào tạo trình độ đại học ban hành kèm theo Thông tư 08/2021/TT-BGDĐT có quy định sinh viên chuyển ngành khác phải đáp ứng điều kiện như sau:
- Không đang là sinh viên trình độ năm thứ nhất hoặc năm cuối khóa;
Không thuộc diện bị xem xét buộc thôi học và còn đủ thời gian học tập tối đa để sinh viên hoàn thành khoá học được quy định trong quy chế của cơ sở đào tạo, nhưng không vượt quá 02 lần thời gian theo kế hoạch học tập chuẩn toàn khoá đối với mỗi hình thức đào tạo.
Đối với sinh viên học liên thông đã được miễn trừ khối lượng tín chỉ tích lũy, thời gian tối đa để sinh viên hoàn thành khóa học được xác định trên cơ sở thời gian theo kế hoạch học tập chuẩn toàn khoá giảm tương ứng với khối lượng được miễn trừ.
- Sinh viên đạt điều kiện trúng tuyển của chương trình, ngành đào tạo, của trụ sở chính (hoặc phân hiệu ) trong cùng khóa tuyển sinh;
- Cơ sở đào tạo, trụ sở chính (hoặc phân hiệu) có đủ các điều kiện bảo đảm chất lượng, chưa vượt quá năng lực đào tạo đối với chương trình, ngành đào tạo đó theo quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
- Được sự đồng ý của thủ trưởng các đơn vị chuyên môn phụ trách chương trình, ngành đào tạo, người phụ trách phân hiệu (nơi chuyển đi và chuyến đến) và của hiệu trưởng cơ sở đào tạo.
Việt Nam đã thay đổi như thế nào sau 47 năm?
Thật khó tin khi chỉ mới 47 năm trước, Việt Nam lại có diện mạo khác xa so với ngày nay. Vào năm 1976, bản đồ Việt Nam chỉ có 38 tỉnh thành, một con số khiêm tốn so với 63 tỉnh thành vào thời điểm hiện tại.
Sự khác biệt này là kết quả của một quá trình chia tách và sáp nhập phức tạp trong suốt nhiều thập kỷ. Sau năm 1975, Việt Nam thống nhất với 29 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc trung ương. Tuy nhiên, chỉ một năm sau, nước ta đã điều chỉnh lại bản đồ hành chính, tách một số tỉnh và thành lập nhiều tỉnh mới.
Bắc Bộ, khu vực đông dân nhất vào thời điểm đó, bao gồm 13 tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái, Hà Bắc, Vĩnh Phú, Phú Thọ, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình, Nam Hà, Hà Nam và Hà Tây. Hai thành phố trực thuộc trung ương là Hà Nội và Hải Phòng. Các tỉnh còn lại được phân bổ rải rác trên khắp cả nước.
Tình hình chính trị và kinh tế thay đổi liên tục ở Việt Nam đã dẫn đến những thay đổi tiếp theo về mặt hành chính. Trong những năm sau đó, nhiều huyện và thị xã được nâng cấp thành thị trấn và thành phố. Đồng thời, một số tỉnh cũng được chia tách hoặc sáp nhập với các tỉnh lân cận.
Quá trình phát triển đất nước và cải thiện đời sống nhân dân đã đòi hỏi sự điều chỉnh kịp thời trong việc phân chia hành chính. Sự thay đổi về số lượng và ranh giới địa lý của các tỉnh thành không chỉ phản ánh sự phát triển thực tế mà còn khẳng định nỗ lực không ngừng của Việt Nam trong việc xây dựng một quốc gia hùng cường.
Ngày nay, Việt Nam là một quốc gia hiện đại với 63 tỉnh thành đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Mỗi tỉnh thành đều có những nét độc đáo và đóng góp riêng vào sự phát triển chung của cả nước.